Lịch sử YMCA

Cơ sở YMCA đầu tiên ở Bắc Mỹ tại Montréal, Québec, Canada.

Ngày 6 tháng 6 năm 1844 tại Luân Đôn, George Williams và một nhóm bạn hữu cùng chí hướng, tất cả đều là tín hữu Cơ Đốc thuộc trào lưu Tin Lành, khởi xướng Phong trào YMCA.[3] Williams là nhân viên bán hàng tại một cửa hiệu vải, mẫu thanh niên điển hình bị bứng nhổ khỏi gốc gác nông thôn tìm đến các thành phố lớn để kiếm việc làm trong thời kỳ Cách mạng Công nghiệp.

Williams cùng những người bạn đồng cảnh ngộ nhận ra sự thiếu thốn các chương trình hoạt động lành mạnh cho giới trẻ tại các đô thị như Luân Đôn. Vì vậy, giới trẻ thường tìm đến quán rượu, nhà thổ và những chỗ khác là nơi chốn dẫn dụ họ vào nếp sống tội lỗi. Khởi đầu chỉ là một địa điểm các bạn trẻ tìm đến để cùng học Kinh Thánh và cầu nguyện, YMCA phát triển mạnh và đến năm 1850 có mặt tại Úc. Chi hội YMCA đầu tiên tại Bắc Mỹ được thành lập ngày 25 tháng 12 năm 1851 bởi giáo đoàn Giám Lý Thánh James ở Montréal, Québec, Canada, và ở Hoa Kỳ ngày 29 tháng 12 trong năm ấy tại Boston, tiểu bang Massachusetts.

Sơ khai

Trong giai đoạn đầu, YMCA tập trung vào nỗ lực cung ứng nhà ở giá rẻ trong môi trường Cơ Đốc an toàn cho thanh niên thiếu nữ rời bỏ nông thôn đi kiếm việc làm ở đô thị.[4] Phương pháp hoạt động của YMCA là kết hợp việc truyền bá phúc âm trên đường phố với công tác xã hội. Nhiều người xem YMCA là biện pháp hữu hiệu giúp các bạn trẻ quân bình giữa công việc (đa phần là nặng nhọc) với thư giãn và giải trí, hầu có thể tránh những tệ nạn xã hội tràn lan bên ngoài như chè chén, cờ bạc, và mãi dâm.[4]

Cương lĩnh Paris 1855

Năm 1855, chín mươi chín đại biểu YMCA qui tụ về Paris, Pháp, ở đây họ thông qua bản cương lĩnh chung cho YMCA tại các quốc gia.[5] Điểm chính của bản "Cương lĩnh Paris" là sự đồng thuận không để cho bất cứ sự bất đồng nào tách rời phong trào khỏi các giá trị Cơ Đốc nguyên thủy. Để nhấn mạnh quan điểm này, Phúc âm John 17. 21 (Gioan hoặc Giăng) được chấp nhận là câu khẩu hiệu của tổ chức: "... để cho ai nấy hiệp làm một". Hội nghị Paris tập chú vào chủ đề xây dựng nhân cách cho mỗi cá nhân – giúp giới trẻ xây dựng cho mình và cho mọi người "tâm linh thanh khiết, trí tuệ mẫn tiệp, và thân thể cường tráng". Trong thế kỷ XX, YMCA tại các quốc gia thành viên điều chỉnh cấu trúc nhằm phục vụ cho cả hai giới, song tên gọi YMCA đã trở nên quá quen thuộc và gần gũi nên vẫn tiếp tục tồn tại. Tại một số quốc gia, như YMCA Na Uy năm 1880 đã chấp nhận một chính sách nghiêm nhặt nhằm bảo đảm sự bình đẳng giới tính trong các uỷ ban và ban quản trị cấp quốc gia.

Thập niên 1870 – thập niên 1930

Một lớp võ thuật tự vệ của YMCA tại Boise, Idaho, 1936.

Đây là giai đoạn YMCA gặt hái nhiều thành công trong nỗ lực quảng bá Cơ Đốc giáo Tin Lành những ngày trong tuần và trong những lễ thờ phượng Chủ nhật, đồng thời phát triển các loại hình thể thao và những kỳ thi đấu cho các môn như bóng rổ, bóng chuyền và bơi lội.[4] Sau giai đoạn này, khi sang thế kỷ XX, YMCA trở thành một tổ chức liên hệ phái, bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến việc nâng cao đạo đức, và xây dựng nếp sống công dân gương mẫu.[4] Ngày nay, YMCA tập chú vào việc khuyến khích giới trẻ và gia đình của họ sống lành mạnh.

Từ thập niên 1940

Năm 1973, "Nguyên tắc Kampala" được thông qua củng cố các chính sách của YMCA, biểu thị lập trường ngày càng phổ biến hơn của YMCA tại các quốc gia, tuyên cáo rằng nên thiết lập một quan điểm toàn cầu. Do đó, YMCA cần có một lập trường chính trị hầu có thể đáp ứng các thách thức trên quy mô quốc tế. Tuyên bố "Thách thức 21" được thông qua tại Hội nghị Toàn cầu tổ chức năm 1998Đức, dành nhiều quan tâm hơn cho các vấn nạn toàn cầu như bình đẳng giới, phát triển bền vững, chiến tranh và hoà bình, phân phối tài nguyên công bằng cùng những thách thức của toàn cầu hoá, kỳ thị chủng tộc và HIV/AIDS. YMCA đã kiên trì theo đuổi cuộc đấu tranh toàn cầu chống nạn phân biệt chủng tộc (apartheid).[6]

YMCA tại các quốc gia, đặc biệt ở Tây Âu và Bắc Mỹ, rất thành công trong kế hoạch sử dụng nguồn lực phong phú của mình giúp xây dựng các chi hội YMCA tại các nước Đông Âu. Năm 2003, một đại hội thanh niên được tổ chức tại Praha thu hút đại biểu từ hầu hết các nước Âu châu đến mừng những thành quả đạt được trong nỗ lực hàn gắn những vết thương gây ra bởi sự chia cắt trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.

Phong trào Hướng đạo ngay từ thời kỳ sơ lập đã chịu ảnh hưởng từ YMCA, một nhà quản trị của YMCA khu vực Chicago, Edgar Robinson, đã tạm rời khỏi YMCA để đảm nhiệm chức vụ giám đốc đầu tiên của Hướng đạo Mỹ.

Tại Việt Nam thời Đệ Nhất Cộng hòa, YMCA được lập vào Tháng Bảy năm 1959 dưới tên Hội Cơ Đốc Thanh niên Việt Nam với mục sư Phạm Văn Thâu làm hội trưởng. Hoạt động của Hội gồm lớp dạy Anh văn miễn phí, lớp dạy tiếng Việt cho Hoa kiều để nhập quốc tịch Việt Nam, một số phòng đọc sách và thư viện. Hội cũng tổ chức những buổi diễn thuyết cho công chúng.[7]